PHẬT NÓI KINH VŨ BẢO ĐÀ LA NI



Mật Tạng Bộ 3 _ No. 1163 (Tr.667 _ Tr. 669)

PHẬT NÓI KINH BẢO ĐÀ LA NI

Hán dịch: Đời Đường Tam Tạng Sa Môn Đi Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

Như vy tôi nghe. Một thời Đức Bạc G Phm ngự tại rng Kiến Tra Ca thuộc nước Kiều Thưng Di cùng với chúng Đại Bật gm 500 người rất nhiu các vị Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đến hội họp.
By giờ trong nước Kiều Thướng Di vị Trưởng Giả tên Diệu Nguyệt vốn là người có các căn tịch tĩnh, tâm ý lng trong, dẫn theo nhiều nam nữ tôi tớ đã thành tựu tĩnh tín (nim tin trong sạch) đi đến nơi Phật ngự, cúi đầu làm lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Đc Phật trăm ngàn vòng rồi lui về tr một bên, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con chút nghi ngờ, muốn thưa hỏi Đấng Như Lai
Ứng Chính Đẳng Giác. Nguyện xin Đấng Từ Bi lòng thương lng nghe hứa cho” Khi y Đức Thế Tôn bảo Trưởng Giả rng: Ý ông đã muốn hỏi. Ta sẽ ông
nói để cho Tâm ông được vui”

Trưởng Giả nghe xong liền vui mừng hớn hở. “Bạch Đức Thế Tôn! Làm thế nào mà người trai lành, kẻ nữ thiện, các người nghèo túng thể được giàu có? Các kẻ bệnh tật khiến cho không còn bệnh tật?
By giờ Đức Thế Tôn bảo Diu Nguyt Trưởng Giả rằng: Do nhân duyên nào mà ông hỏi như vy?
Thời Trưởng Giả bạch Phật rằng: Thế Tôn! Kẻ tại gia chúng con có nhiều quyến
thuộc, tiền bạc ít i nên khó thể chi dng đủ, lại nhiều bnh tật. Nguyện xin Đức Thế Tôn m bày Pháp yếu khiến cho kẻ nghèo túng xa lìa hẳn sự nghèo cùng, kho lương tiền của đều đưc đy nhm chu cp cho vợ con nam nữ, quyến thuộc trong nhà ngưi đến cầu xin thì đu vui vẻ làm vị Đại T Chủ khiến cho kho ơng, vàng bạc, châu báu, Xích Châu, Não, vàng báu được phong nhiêu không bao giờ hết để cấp dưng cho thân thuộc, rộng tu Huệ Thí làm li ích cho Hu Tình”
Khi y Đức Thế Tôn bảo Diệu Nguyệt Trưng Giả rằng: “Này Thiện Nam Tử!
Vào a tăng kỳ kiếp trong thời quá khứ, Ta đã gặp Đức Phật Thế Tôn tên Trì Kim
Cương Hải Âm Như Lai Ứng Chính Biến Tri. Từ Đức Như Lai y, Ta nhận được Vũ Bảo Đà La Ni này, ri thọ trì đọc tụng, suy tư, tùy vui kẻ khác rộng nói lưu bố. Do lực uy đức của Đà La Ni này mà các hàng Trời (Deva), Ngưi (Manuya), Phi Nhân (Amanuya), Dược Xoa (Yakṣa), La Sát (Rākṣasa), Tất Lệ Đa (Preta), Tt Xá Già (Piśāca), Cưu Bàn Nỗ (Kumbhāṇḍa), Ô Sa Đa La Ca (Ostakara), Bố Đan Na (Pūtana), Yết Tra Bố Đan Na (Kaṭapūtana).... Loài khởi Tâm ác chẳng thể làm hại được. Lại loài quỷ cướp đoạt m ty, thân thể, máu, nước mũi, th khạc nhổ, nước tiểu, phân của loài người loài muốn đến gây não hại đều chng thể gây chưng ngại”

Đức Phật bảo: Này Diệu Nguyệt! Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện khởi tâm ghi nhớ dùng tay giữ gìn viết chép cho đến chỉ nghe tên mà thọ trì, tùy vui, rộng vì người khác diễn bày thì kẻ trai lành, người n thiện y sẽ được an ổn suốt ngày đêm, nhận được sự vui thích vừa ý là: sự giàu có, an vui, hạt giống tiền của vị Du Già.

Nếu người thọ trì Vũ Bảo Đà La Ni này t nên cúng dường tất cả Như Lai một ngày, hai ngày, hoặc ba ngày chuyên Tâm tụng trì, yêu kính, tin tưng Tam Bảo ắt chư Thiên đều vui vẻ vì vị Pháp đọc tụng y liền tuôn mưa tài bảo, lúa gạo, lúa mì”
Liền nói Đà La Ni là :
1) Nẵng nga phộc đế
2) Phộc nhật-la đà la
3) Sa nga la, niết cụ sái gia
4) Đát tha nghiệt đa dã
5) Đát nễ tha: Án, tố lỗ bế
6) Bạt nại-la phộc để
7) Măng nga lệ, a tả lệ
8) A tả p lệ
9) Ôn già đá nễ
10) Ôn bệ nễ
11) Tát tả phộc để
12) Đà ơng phc để
13) Đà nng phộc để
14) Thất-l ma để
15) Bát-la bà, phộc để
16) A ma l
17) ma lệ
18) Lỗ lỗ
19) Tố lỗ bế
20) ma
21) A đa tất đế
22) đa tất đế
23) thấp phộc kế n
24) Tả củ lệ
25) Măng củ lệ
26) Địa đa minh
27) Độ độ minh
28) Đá đá lệ
29) Đa la, đa la
30) Phộc nhật-lê
31) A vạt đá nễ
32) Bộ kế, ốc kế
33) Tra kế, tra kế
34) Vạt la-sái ni
35) Nễ sáp na nễ
36) nga vãn
37) Phộc nhật-la đà la
38) Sa nga la
39) Niết cụ sam
40) Đát tha nghiệt đá, ma nỗ sa-ma la
41) Sa-ma la, sa-ma la
42) Tát phộc đát tha nghiệt đá
43) Tát nễ
44) Ma nỗ sa-ma la

45) Tăng già tát để-dã, ma nỗ sa-ma la
46) Đát tra, đát tra
47) Bố la, bố la
48) Bố la dã, bố la
49) la, la, la nê
50) Tố măng nga lệ
51) Phiến đá, ma để
52) Mộng nga la, ma để
53) Bát-la bà, ma để, ma ha để
54) Tố nại-la, phộc để
55) A nghiệt tha, a nghiệt tha
56) Tam ma dã, ma n sa-ma la, sa-phộc hạ
57) A đà la, ma nỗ sa-ma la, sa-phộc h
58) Bát-la phộc, ma nỗ sa-ma la, sa-phộc hạ
59) Đà-ly để, ma nỗ sa-ma la, sa-phộc hạ
60) nh dã, ma nỗ sa-ma la, sa-phc hạ
61) Tát phộc tát đát-phộc, nhạ dã, ma nỗ sa-ma la, sa-phc hạ

Đức Phật bảo Diệu Nguyt Trưởng Giả: “Đây gọi Bảo Đà La Ni. Do uy lực của Đà La Ni này mà bệnh hoạn, đói kém mất mùa, tật dịch, ti chướng... cả thy đều tiêu diệt.
Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện trước tiên nên cúng dường tất cả N Lai, trong
mt ngày một đêm tng trì không gián đoạn thì ngôi gia y liền tuôn mưa báu như lượng một người lớn, tất cả tai họa thy đều tiêu diệt. Chính thế cho nên Thiện Nam Tử nên thọ trì Vũ Bảo Đà La Ni này, rộng vì người khác phân biệt diễn nói”
_ “Lành thay! Thế Tôn!”
Diệu Nguyệt Trưng Giả nghe lời Phật nói liền vui mng hớn h. “Nay con theo Đức Phật nhận Bảo Đà La Ni này sẽ th trì đọc tụng, rộng người khác phân biệt giải nói”

By gi Diu Nguyệt Trưởng Giả nhn li dy của Đức Phật xong liền nhiễu quanh bên phải Đức Thế Tôn trăm ngàn ng, chắp tay cung kính cùi đầu làm lễ dưới chân Đức Phật rồi vui vẻ lui ra.
Khi y Đức Pht bảo Cụ Thọ A Nan Đà rằng: “Ông đi qua nhà ca Diệu Nguyệt Trưởng Giả nhìn xem mọi loại tiền tài, lúa gạo, các vật trân bảo các vật dụng ở trong kho tàng của vị Trưởng Giả y ngày nay đã đy chưa?
Lúc đó Cụ Thọ A Nan Đà nhận lời Phật dy xong, đi đến Thành Kiu Thướng Di,
vào nhà của Diệu Nguyt Trưởng Giả nhìn thy tài bảo trong các kho tàng đều đy. Ngài A Nan trông thy sự việc này thì tâm rất vui mừng hn hở đi về

Khi y Cụ Thọ A Nan Đà khởi Tâm khác lạ chưa từng có. Ngài vui vẻ bạch Pht rằng: “Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà kho tàng của Diệu Nguyệt Trưởng Giả lại dư đy như thế?
Đức Phật bảo: “Này Thiện Nam Tử! Diệu Nguyệt Trưởng Giả niềm tin trong sạch nơi Ta, đã thọ trì Bảo Đà La Ni này lại tất cả Hữu Tình diễn nói. thế nên A Nan Đà! Hãy thọ trì Đà La Ni này rộng người khác nói. Ta dùng Phật Nhãn xem xét các hàng Trời, Người, Ma, Phm, Sa Môn, La Môn trong Thế Gian đối với kẻ thọ trì Bảo Đà La Ni chẳng dám gây chướng nạn. sao thế   Như Lai không
nói lời khác (Dị ngữ) Chân Ngôn này chẳng thể b hy nát được. Đà La Ni

này, k Hữu Tình không có căn lành thì tai cũng chẳng được nghe huống chi viết chép, đọc tụng. Tại sao vy? đây là nơi tất cả Như Lai tùy hỷ. nơi mà tất cả Như Lai khen ngợi. Là nơi mà tất cả Như Lai hiển dương. Là nơi mà tất cả Như Lai gieo trồng hạt giống”
A  Nan  bch  Pht  rng:  “Lành  thay!  Thế  Tôn!”.  Rồi  ng  Diệu  Già  Tha
(Gāthā:bài kệ) mà nói Tụng : Chư Phật k luận bàn Phật Pháp cũng như vậy Tính Tịnh không suy nghĩ Quả báo cũng n vậy
Tịch Tuệ Nhất Thiết Trí
Pháp Vương chẳng diệt sinh
Đã đến Thắng B Ngn
Cúi lạy Phật Dũng Mãnh

By giờ Cụ Thọ A Nan Đà đã nghe Đức Pht nói về Kinh Bảo Đà La Ni này liền hớn h vui mừng bạch với Đức Phật rằng: “Thế Tôn! Pháp yếu này tên gọi như thế nào? Kinh này, ngày nay chúng con th trì như thế nào?
Đức Phật bảo: “Này A Nan Đà! Kinh này có tên Diệu Nguyệt Trưởng Giả Sở
Vấn Ông nên thọ trì, cũng tên là Năng H Nhất Thiết Tài Bảo Phục Tàng, ng có tên Nhất Thiết N Lai Xưng Tán Bảo Đà La Ni Giáo… Ông nên thọ trì”

Thời Đức Bạc G Phạm nói Kinh này xong thì lượng Bật Sô và các Bồ Tát với chư Thiên, Người, A La... tất cả Đi Chúng nghe điều Phật nói đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành
_ Tâm Chân Ngôn là:
“Án, phộc tố đà lệ, sa-phộc hạ”
向鉏    
*) OṂ_ VASUDHARE_ SVĀHĀ

_ Tâm Trung Tâm Chân Ngôn là:
“Án, thất-lị phc tố, sa-phộc hạ”
送扣
*) OṂ_ Ś VASU_ SVĀHĀ

_ Tiểu Tâm Chân Ngôn là:
“Án, phộc tố, sa-phộc hạ”
向鉏 送扣
*) OṂ_ VASU_ SVĀ

PHẬT NÓI KINH BẢO ĐÀ LA NI (Hết)

BẢO ĐÀ LA NI

Dịch âm: HUYỀN THANH

巧伕 向包     叻先     丫先      丫出伏

NAMO BHAGAVATE VAJRA-DHARA SĀGARA-NIRGHOṢĀYA TATHĀGATĀYA
凹改卡         冰本     矛誂                        凹市
栥立叨市     向凸     叻鄐                   
合亙同    冰冰              鉏冰立     合亙同     叨凹肵     合叨     合鄎了圬    
慱乃同    囚囚伙     鉡伙     凹同 向怔      痡市     禾榵     了揨
向溶仗    市子
TADYATHĀ: OṂ_ SURUPE_ BHANDRA-VATI_ MOGALE   ACALE_ ACAPALE_ UGHĀTANI_ UBHEDANI_ SASYA    VATI_ DHAJÑA-VATI_ DHANA-VATI_ ŚRĪ-MATI_ PRABHA-VATI_ AMALE_ VIMALE_ RURU_ SURUBHE_ VIMALE_ ADATASTE_VIDATASTE_VIŚVA  KEŚI _ AṄKULE_ MOṂKULE _ DHIDHI ME _ DHUDHU ME _ TATALE _ TARA TARA _ VAJRE
_ AVARTTANI _ BHUKKE OKKE _ TAKE TAKE _ VARṢAṆI _ NIṢPODANI
矛丫圳    向忝     州丫先 槂寺     丫凹 絆先
BHAGAVAṂ VAJRA-DHARA SĀGARA-NIRGHOṢAṂ TATHĀGATAM ANUSMARA
絆先揨
SMARA SMARA
屹楠 丫凹     屹忸 亙平絆先
SARVA TATHĀGATA-SATYAM ANUSMARA
叻猣 屹忸 絆先
DHARMA-SATYAM ANUSMARA
鈺千 屹忸 絆先
SAṂGHA-SATYAM ANUSMARA
凹巴揨    觢先揨                  觢先伏揨     矛先揨     矛先仗     慱丫同     圭阢
慱丫同          亙凸     誂向凸     玅丫     屹亙伏     平絆先
送扣
TAṬA  TAṬA  _ PURA  PURA _ PURAYA  PURAYA _  BHARA  BHARA BHARANI _ SUMOṂGALE _ ŚĀNTA-MATI _ MOGALA-MATI _ PRABHĀ- MATI_ MAHĀ-MATI _ SUBHANDRA-VATI _ ĀGACCHA    ĀGACCHA SAMAYAM ANUSMARA_ SVĀHĀ
四先     亙平     送扣
Ā DHĀRAM ANUSMARA _ SVĀHĀ
盲矢向 平絆先    
PRABHĀVAM ANUSMARA _ SVĀ
呠丙 絆先     送扣
DṚḌHAM ANUSMARA _ SVĀHĀ
合介伏 平絆先    
VIJAYAM ANUSMARA _ SVĀHĀ
屹楠 屹玆     亙平絆送扣
SARVA-SATVA VIJAYAM ANUSMARA _ SVĀHĀ Hiệu chỉnh xong vào ngày 06/03/2010

Comments

Popular posts from this blog

AN ĐỊA THIÊN CHÂN NGÔN

KIÊN LAO ĐỊA THIÊN NGHI QUỸ